stitcherLogoCreated with Sketch.
Get Premium Download App
Listen
Discover
Premium
Shows
Likes

Listen Now

Discover Premium Shows Likes

Vina Blockchain

368 Episodes

3 minutes | Aug 28, 2020
BiText with Audio - Tài liệu Học Anh ngữ - Specializes in
Specializes in 1 She specializes in helping lawyers find alternative careers. 2 She specializes in complex distributed systems across multiple technology platforms. 3 This company specializes in releasing quality horror film. 4 The firm specializes in personal injury law. 5 The firm specializes in police contract negotiations. 6 He specializes in helping sellers avoid foreclosure. 7 The practice specializes in treating difficult cases through tertiary care. 8 This voice specializes in smaller comic roles. 9 This label specializes in producing street fashion geared towards youth . 10 Occupational therapy specializes in treatment of such conditions. 11 He specializes in both mortgage financing and real estate. 12 He specializes in sculpture for sacred spaces. 13 The studio specializes in master demos and custom albums. 14 Sherry currently specializes in senior and dementia care. 15 Tim specializes in business valuation and succession planning. 16 District 7 specializes in lumber and paper. 17 District 1 specializes in producing luxury items such as jewelry. 18 She specializes in feminist theory and qualitative research methods. 19 It specializes in pure and applied sciences. 20 There is software which specializes in creating loops. 21 She specializes in parenting and education topics. 22 He specializes in diving attacks from high altitudes. 23 Tax practice specializes in tax preparation and representation. 24 The hospital specializes in behavioral health and mental disabilities. 25 Each character specializes in one dance style. 26 The hospital specializes in spinal cord and brain injuries. 27 The duo specializes in combining hip hop and indie rock music. 28 Each society specializes in an academic interest. 29 The gray wolf generally specializes in vulnerable individuals of large prey. 30 The company specializes in retail leasing and investment property sales. 31 The hospital specializes in child and maternity care. 32 He specializes in white collar defense and complex business litigation . 33 The counselor specializes in marriage and couples counseling. 34 Lisa actually specializes in photographing indigenous people. 35 The kitchen team specializes in Mediterranean style cooking. 36 DS Software specializes in mobile navigation tools . 37 Burnham Benefits specializes in employee benefits insurance . 38 He specializes in leading complex strategic, business and technology transformations. 39 She specializes in applying tech tools to real-world business scenarios. 40 Jennifer specializes in bringing a creative edge to classic style. Chuyên về 1 Cô ấy chuyên giúp các luật sư tìm các nghề nghiệp thay thế. 2 Cô ấy chuyên về các hệ thống phân tán phức tạp trên nhiều nền tảng công nghệ. 3 Công ty này chuyên phát hành những bộ phim kinh dị chất lượng. 4 Công ty chuyên về luật thương tích cá nhân. 5 Công ty chuyên về đàm phán hợp đồng với cảnh sát. 6 Anh ta chuyên giúp người bán tránh bị tịch thu tài sản. 7 Cơ sở thực hành chuyên điều trị các trường hợp khó thông qua chăm sóc đại học. 8 Giọng nói này chuyên về các vai nhỏ hơn trong truyện tranh. 9 Hãng này chuyên sản xuất thời trang đường phố hướng đến giới trẻ. 10 Liệu pháp nghề nghiệp chuyên điều trị các tình trạng như vậy. 11 Ông chuyên về tài chính thế chấp và bất động sản. 12 Anh chuyên về điêu khắc cho những không gian linh thiêng. 13 Phòng thu chuyên về các bản trình diễn chính và album tùy chỉnh. 14 Sherry hiện chuyên chăm sóc người già và người mất trí nhớ. 15 Tim chuyên về định giá doanh nghiệp và lập kế hoạch kế thừa. 16 Quận 7 chuyên về gỗ và giấy. 17 Quận 1 chuyên sản xuất các mặt hàng xa xỉ như trang sức. 18 Cô ấy chuyên về lý thuyết nữ quyền và các phương pháp nghiên cứu định tính. 19 Nó chuyên về khoa học ứng dụng và thuần túy. 20 Có phần mềm chuyên tạo vòng lặp. 21 Cô ấy chuyên về các chủ đề nuôi dạy con cái và giáo dục. 22 Anh ta chuyên về các cuộc tấn công lặn từ độ cao lớn. 23 Hành nghề thuế chuyên về khai thuế và đại diện. 24 Bệnh viện chuyên về sức khỏe hành vi và kh
4 minutes | Aug 28, 2020
BiText with Audio - Tài liệu Học Anh Văn: Knows a lot about
Knows a lot about 1 And Steve knows a lot about being poor. 2 He is cheap and knows a lot about car development. 3 She also knows a lot about make-up. 4 He likes to cook and knows a lot about preparing fish. 5 He knows a lot about our organization through them . 6 He knows a lot about a lot of stuff . 7 He also knows a LOT about Egyptian history. 8 It's a subject that he knows a lot about . 9 One woman who knows a lot about this is Laura Munson. 10 Your browser knows a lot about what you do on the internet. 11 She's very snippy, like she knows a lot about horseland. 12 He knows a lot about the the game, and plays with passion. 13 She knows a lot about black magic, and her fortune telling is very popular. 14 He especially knows a lot about how the synoptic gospels differ from each other. 15 Make sure the coach knows a lot about the area where you need the help. 16 Google knows a lot about its users , but Facebook has a different knowledge base. 17 WORLD tennis number one Novak Djokovic is a man who knows a lot about discipline. 18 Most influential visualizations Tableau Software without a doubt knows a lot about data visualization techniques. 19 Best-selling author and HubSpot CEO Brian Halligan knows a lot about building trust fast . 20 Precision is something Schmidt knows a lot about from more than 25 years in his field. 21 Heck , he probably knows a lot about politics that we have yet to see. 22 The fourth, "The Cat in the Hat Knows a Lot About That! 23 Using the digital agency example again, perhaps SVM knows a lot about negotiating labor-based services contracts. 24 In layman's terms, he knows a lot about things that live on land and glow. 25 He knows a lot about the ups-and-downs of life and grinding on the path to success. 26 He,he, Dick Morris is an expert who knows a lot about everything except politics. 27 Oscar got his start racing dirt track ovals under the lights, he knows a lot about dirt. 28 You're doing a lot in the Middle East because Moratinos knows a lot about it. 29 If it's an electronic gadget, Mark wants it and probably knows a lot about it. 30 Susie knows a lot about our topic; I think we really missed out on her ideas. 31 Mastering the skills to develop these "apps" is something that Mike Soderstrom knows a lot about . 32 She knows a lot about detection and things!' explained Sybil, evidently thinking this would impress. 33 He knows a lot about the stuff he's researched, he's an expert in his field. 34 His most recent tirade was headlined "Apple Arrogance Unleashed!" Elgan knows a lot about arrogance. 35 She's determined to make it big - and men's underpants are something she knows a lot about ! 36 Next to football, Sheldon knows a lot about the fantasy sport of Quidditch in "Harry Potter". 37 He is impulsive, impatient, tells jokes, and knows a lot about Greek Mythology and Star Wars. 38 He knows a lot about securing sponsorship and TV contracts for leagues that are not an "easy sell". 39 He understands what cattle need and, though not a veterinarian, he also knows a lot about treating sick cattle. 40 In addition, he is very intelligent and well-read with the result that he knows a lot about many different things. Biết nhiều về 0,1 lần truy cập mỗi triệu 1 Và Steve biết rất nhiều về việc nghèo. 2 Anh ấy ham rẻ và biết nhiều về phát triển xe hơi. 3 Cô ấy cũng biết nhiều về trang điểm. 4 Anh ấy thích nấu ăn và biết rất nhiều về việc chuẩn bị cá. 5 Anh ấy biết rất nhiều về tổ chức của chúng tôi thông qua họ. 6 Anh ấy biết rất nhiều về rất nhiều thứ. 7 Anh ấy cũng biết rất nhiều về lịch sử Ai Cập. 8 Đó là một chủ đề mà anh ấy biết rất nhiều . 9 Một phụ nữ biết nhiều về điều này là Laura Munson. 10 Trình duyệt của bạn biết rất nhiều về những gì bạn làm trên internet. 11 Cô ấy rất vui tính, giống như cô ấy biết rất nhiều về vùng ngựa. 12 Anh ấy biết rất nhiều về trò chơi và chơi với niềm đam mê. 13 Cô ấy biết rất nhiều về ma thuật đen, và việc xem bói của cô ấy rất nổi tiếng. 14 Anh ấ
17 minutes | May 29, 2020
Episode 378 - August 16 - Audio: 278 - Text: Touching The Tiger 20
Deng made no attempt to hide China’s economic lag: “If you have an ugly face, it is no use pretending that you are handsome.” Họ Đặng đã không tìm cách che đậy sự chậm tiến kinh tế của Trung Quốc: “Nếu bạn có một bộ mặt xấu, chẳng có ích chi để giả vờ rằng bạn đẹp trai”. When asked to sign a visitors’ book, he wrote an unprecedented appreciation of Japanese accomplishments: “We learn from and pay respect to the Japanese people, who are great, diligent, brave and intelligent.” Khi được yêu cầu ký tên vào sổ khách đến thăm, ông đã viết ra một sự tán thưởng chưa từng có về các thành quả của Nhật Bản: “Chúng tôi học hỏi và kính trọng nhân dân Nhật Bản, những kẻ vĩ đại, cần cù, can đảm và thông minh”. In November 1978, Deng visited Southeast Asia, traveling to Malaysia, Singapore, and Thailand. Trong Tháng Mười Một 1978, họ Đặng viếng thăm Đông Nam Á, du hành đến Mã Lai, Tân Gia Ba và Thái Lan. He branded Vietnam the “Cuba of the East” and spoke of the newly signed Soviet-Vietnamese treaty as a threat to world peace.27 In Thailand on November 8, 1978, Deng stressed that the “security and peace of Asia, the Pacific and the whole world are threatened” by the Soviet-Vietnamese treaty: “This treaty is not directed against China alone. Ông đã gọi Việt Nam là “Cuba của Phương Đông” và đã nói về hiệp ước Sô Viết – Việt Nam mới được ký kết như một mối đe dọa hòa bình thế giới. 27 Tại Thái Lan hôm 8 Tháng Mười Một, 1978, họ Đặng đã nhấn mạnh rằng “an ninh và hòa bình của Á Châu, Thái Bình Dương và toàn thể thế giới bị đe dọa” bởi hiệp ước Sô Viết – Việt Nam: “Hiệp ước này không chỉ nhắm riêng vào Trung Quốc … It is a very important worldwide Soviet scheme. Nó là một mưu đồ Sô Viết trên toàn thế giới rất quan trọng. You may believe that the meaning of the treaty is to encircle China. Bạn có thể tin tưởng rằng ý nghĩa của bản hiệp ước là để bao vây Trung Quốc. I have told friendly countries that China is not afraid of being encircled. Tôi có nói với các nước thân hữu rằng Trung Quốc không sợ hãi vì bị bao vây. It has a most important meaning for Asia and the Pacific. Nó có một ý nghĩa quan trọng nhất đối với Á Châu và Thái Bình Dương. The security and peace of Asia, the Pacific and the whole world are threatened.” An ninh và hòa bình của Á Châu, Thái Bình Dương và toàn thể thế giới bị đe dọa”. On his visit to Singapore, Deng met a kindred spirit in the extraordinary Prime Minister Lee Kuan Yew and glimpsed a vision of China’s possible future—a majority-Chinese society prospering under what Deng would later describe admiringly as “strict administration” and “good public order.” Trong cuộc thăm viếng của ông tại Singapore, họ Đặng đã gặp một tinh thần thân thuộc nơi vị Thủ Tướng phi thường Lý Quang Diệu và thoáng nhận thấy một dự kiến về tương lai khả dĩ của Trung Quốc -- một xã hội đa số người gốc Trung Hoa thịnh vượng dưới điều mà họ Đặng sau này sẽ mô tả một cách ngưỡng mộ là “hành chính quản trị nghiêm ngặt” và “trật tự công cộng tốt đẹp”. At the time, China was still desperately poor, and its own “public order” had barely survived the Cultural Revolution. Vào lúc đó, Trung Quốc vẫn còn nghèo khổ một cách thê thảm, và “trật tự công cộng” của chính nó đã chỉ vừa sống sót qua Cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Lee Kuan Yew recounted a memorable exchange: He invited me to visit China again. Lý Quang Diệu đã thuật lại một sự trao đổi đáng ghi nhớ: Ông ta mời tôi đến thăm viếng Trung Quốc lần nữa. I said I would when China had recovered from the Cultural Revolution. Tôi nói rằng tôi sẽ đi khi Trung Quốc phục hồi từ Cuộc Cách Mạng Văn Hóa. That, he said, would take a long time. Việc đó, ông ta nói, sẽ cần một thời gian dài. He was silent. Ông ta im lặng. Lee paid tribute to Deng’s pragmatism and willingness to learn from experience. Họ Lý kính trọng tính thực dụng và sự sẵn sàng học hỏi từ kinh nghiệm của họ Đặng. I suggested that we discuss how to resolve this problem. Tôi đề nghị rằng chúng tôi thảo luận phương thức làm sao để giải quyết vấn đề này.
20 minutes | May 29, 2020
Episode 377 - August 15 - Audio: 277 - Text: Touching The Tiger 19
Throughout his trips, Deng stressed China’s relative backwardness and its desire to acquire technology and expertise from advanced industrial nations. 25 Trong suốt các cuộc du hành của ông, họ Đặng nhấn mạnh đến sự lạc hậu tương đối của Trung Quốc và ước vọng của nó để thụ đắc kỹ thuật và sự tinh thông chuyên nghiệp từ các nước kỹ nghệ tiền tiến. But he maintained that China’s lack of development did not alter its determination to resist Soviet and Vietnamese expansion, if necessary by force and alone. Nhưng ông cho rằng sự thiếu phát triển của Trung Quốc đã không làm thay đổi quyết tâm của nó để kháng cự sự bành trướng của Sô Viết và Việt Nam, nếu cần bằng vũ lực và một mình. Deng’s overseas travel—and his repeated invocations of China’s poverty—were striking departures from the tradition of Chinese statecraft. Sự du hành ra ngoại quốc của họ Đặng – và các sự viện dẫn nhiều lần sự nghèo đói của Trung Quốc – đã là các sự tách rời nổi bật khỏi truyền thống của nghệ thuật trị quốc của Trung Hoa. Few Chinese rulers had ever gone abroad. Ít nhà lãnh đạo Trung Hoa đã từng đi ra nước ngoài. (Of course, since in the traditional conception they ruled all under heaven, there technically was no “abroad” to go to.) Deng’s willingness openly to emphasize China’s backwardness and need to learn from others stood in sharp contrast to the aloofness of China’s Emperors and officialdom in dealing with foreigners. (Dĩ nhiên, bởi trong ý niệm truyền thống, họ cai trị mọi thứ dưới gầm trời, về mặt kỹ thuật không có “nước ngoài” để đi đến). Sự sẵn lòng công khai của họ Đặng để nhấn mạnh đến sự lạc hậu của Trung Quốc và nhu cầu cần học hỏi từ các nước khác tương phản một cách rõ rệt với sự cách biệt của các hoàng đế Trung Hoa và giới quan lại thuơng thảo với các ngoại kiều. Never had a Chinese ruler proclaimed to foreigners a need for foreign goods. Chưa từng có một nhà cầm uyền Trung Hoa nào đã tuyên bố với các người nước ngoài một nhu cầu về sản phẩm ngoại quốc. The Qing court had accepted foreign innovations in limited doses (for example, in its welcoming attitude to Jesuit astronomers and mathematicians) but had always insisted that foreign trade was an expression of Chinese goodwill, not a necessity for China. Triều đình nhà Thanh đã chấp nhận các sự canh tân ngoại quốc với các liều lượng hạn chế, thí dụ, trong thái độ chào đón đối với các nhà toán học và thiên văn học thuộc Dòng Tên) nhưng luôn luôn nhấn mạnh rằng ngoại thương đã là một sự biểu lộ thiện chí của Trung Hoa, chứ không phải là một nhu cầu đối với Trung Hoa. Mao, too, had stressed self-reliance, even at the price of impoverishment and isolation. Họ Mao cũng thế, đã nhấn mạnh đến sự tự lực, ngay dù với giá phải trả của sự bần cùng và cô lập. Deng began his travels in Japan. Họ Đặng bắt đầu các chuyến du hành của ông tại Nhật Bản. The occasion was the ratification of the treaty by which normalization of diplomatic relations between Japan and China had been negotiated. Duyên cớ là sự phê chuẩn hiệp ước theo đó sự bình thường hóa các quan hệ ngoại giao giữa Nhật Bản và Trung Quốc đã từng được thương thảo. Deng’s strategic design required reconciliation, not simply normalization, so that Japan could help isolate the Soviet Union and Vietnam. Ý đồ chiến luợc của họ Đặng đòi hỏi sự hòa giải, chứ không chỉ sự bình thường hóa, sao cho Nhật Bản có thể trợ lực để cô lập Liên Bang Sô Viết và Việt Nam. For this objective Deng was prepared to bring to a close half a century of suffering inflicted on China by Japan. Vì mục đích này, họ Đặng được chuẩn bị để khép kín lại nửa thế kỷ thống khổ gây ra bởi Nhật Bản. Deng conducted himself exuberantly, declaring “My heart is full of joy,” and hugging his Japanese counterpart, a gesture for which his host could have found few precedents in his own society or, for that matter, in China’s. Họ Đặng cư xử một cách niềm nở, tuyên bố “Trái tim tôi tràn đầy sự hân hoan”, và ôm ghì lấy đối tác Nhật Bản của ông, một cử chỉ mà vị chủ nhân tiếp đón ông nhận thấy
17 minutes | May 29, 2020
Episode 376 - August 14 - Audio: 276 - Text: Touching The Tiger 18
In response the U.S. Congress passed the Taiwan Relations Act in April 1979, which expressed the American concerns regarding the future as a binding law for Americans. Để đáp ứng, Quốc Hội Hoa Kỳ đã thông qua Đạo Luật Các Quan Hệ Đài Loan trong Tháng Tư 1979, bày tỏ sự quan tâm của Mỹ về tương lai như một đạo luật cưỡng hành đối với Mỹ. It could not, of course, bind China. Dĩ nhiên, nó không thể ràng buộc Trung Quốc. This balance between American and Chinese imperatives illustrates why ambiguity is sometimes the lifeblood of diplomacy. Sự cân bằng này giữa các mệnh lệnh khẩn thiết của Mỹ và Trung Quốc minh họa lý do tại sao sự mơ hồ đôi khi là sinh huyết của ngoại giao. Much of normalization has been sustained for forty years by a series of ambiguities. Phần lớn sự bình thường hóa đã được chống đỡ trong bốn mươi năm bởi một loạt các sự mơ hồ. But it cannot do so indefinitely. Nhưng nó không thể làm như thế một cách vô hạn định. Wise statesmanship on both sides is needed to move the process forward. Tài trí chính khách khôn ngoan ở cả hai bên thì cần thiết để đẩy tiến trình tiến về phía trước. Deng’s Journeys Các Hành Trình Của Họ Đặng As Deng moved from exhortation to implementation, he saw to it that China would not wait passively for American decisions. Khi họ Đặng di chuyển từ sự cổ vũ sang sự thi hành, ông đã nhìn thấy rằng Trung Quốc sẽ không chờ đợi một cách thụ động các quyết định của Mỹ. Wherever possible—especially in Southeast Asia—he would create the political framework he was advocating. Bất kỳ nơi nào có thể -- đặc biệt tại Đông Nam Á – ông sẽ tạo ra khuôn khổ chính trị mà ông đang biện hộ. Where Mao had summoned foreign leaders to his residence like an emperor, Deng adopted the opposite approach—touring Southeast Asia, the United States, and Japan and practicing his own brand of highly visible, blunt, and occasionally hectoring diplomacy. Trong khi họ Mao đã triệu vời các lãnh tụ ngoại quốc đến nơi cư ngụ của ông như một vị hoàng đế, họ Đặng đã chấp nhận chiều hướng ngược lại -- du hành Đông Nam Á, Hoa Kỳ, và Nhật Bản và thực hành kiểu ngoại giao xuất hiện rõ rệt, bộc trực, và đôi khi làm phách của riêng ông. In 1978 and 1979, Deng undertook a series of journeys to change China’s image abroad from revolutionary challenger to fellow victim of Soviet and Vietnamese geopolitical designs. Trong năm 1978 và 1979, họ Đặng đã thực hiện một loạt các hành trình để thay đổi hình ảnh của Trung Quốc ở hải ngoại từ kẻ thách đố cách mạng thành nạn nhân đồng hành của các ý đồ địa chính trị của Việt Nam và Sô Viết. China had been on the other side during the Vietnam War. Trung Quốc đã từng ở phía bên kia trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam. In Thailand and Malaysia, China had previously encouraged revolution among the overseas Chinese and minority populations. Tại Thái Lan và Mã Lai, Trung Quốc trước đây có khuyến khích cách mạng trong số Hoa Kiều hải ngoại và các sắc dân thiểu số. All this was now subordinated to dealing with the immediate threat. Tất cả điều này giờ đây là thứ yếu trước sự đối phó với mối đe dọa tức thời. In an interview with Time magazine in February 1979, Deng advertised the Chinese strategic design to a large public: “If we really want to be able to place curbs on the polar bear, the only realistic thing for us is to unite. Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Time hồi Tháng Hai 1979, họ Đặng đã quảng cáo ý đồ chiến lược Trung Quốc đến một công luận rộng lớn: “Nếu chúng ta thực sự muốn có khả năng để đặt các sự kiềm chế trên con gấu bắc cực, điều thực tế duy nhất cho chúng ta là đoàn kết lại. If we only depend on the strength of the U.S., it is not enough. Nếu chúng ta chỉ dựa vào sức mạnh của Hoa Kỳ không thôi, điều đó không đủ. We are an insignificant, poor country, but if we unite, well, it will then carry weight.” Chúng tôi là một xứ sở nghèo đói, không quan trọng, nhưng nếu chúng ta hợp nhất, vâng, khi đó nó sẽ có trọng lượng”.
21 minutes | May 29, 2020
Episode 375 - August 13 - Audio: 275 - Text: Touching The Tiger 17
Both Nixon and Ford had emphasized America’s concern for a peaceful solution to the issue, including continuation of some security assistance for Taiwan. Cả Nixon và Ford đều nhấn mạnh đến sự quan tâm của Mỹ về một giải pháp hòa bình cho vấn đề, kể cả sự tiếp tục của một số trợ giúp an ninh cho Đài Loan. They had not been able to fulfill these promises because of the impact of Watergate. Họ đã không thể hoàn thành các lời hứa hẹn này bởi tác động của vụ Watergate. In an unusual act of nonpartisan foreign policy, President Carter early in his term reaffirmed all the undertakings regarding Taiwan that Nixon had made to Zhou in February 1972. Trong một hành vi khác thường của chính sách ngoại giao phi đảng phái, Tổng Thống Carter vào lúc ban đầu của nhiệm kỳ ông đã tái khẳng định tất cả các sự cam kết liên quan đến Đài Loan mà Nixon đã đưa ra với họ Chu hồi Tháng Hai 1972. In 1978, he put forward a specific formula for normalization to enable both sides to maintain their established principles: reaffirmation of the principles accepted by Nixon and Ford; an American statement stressing the country’s commitment to peaceful change; Chinese acquiescence to some American arms sales to Taiwan. Trong năm 1978, ông đã đưa ra một công thức cá biệt cho sự bình thường hóa giúp cho cả hai bên duy trì được các nguyên tắc đã thiết định: sự tái khẳng định các nguyên tắc đã được chấp nhận bởi Nixon và Ford; một lời tuyên bố của Mỹ nhấn mạnh đến sự cam kết của xứ sở đối với sự thay đổi hòa bình; sự ưng thuận của Trung Quốc đối với một số vụ bán vũ khí của Mỹ cho Đài Loan. Carter advanced these ideas personally in a conversation with the Chinese ambassador, Chai Zemin, in which he threatened that, in the absence of American arms sales, Taiwan would be obliged to resort to developing nuclear weapons—as if the United States had no influence over Taiwan’s plans or actions. Carter đã đưa ra các ý tưởng này một cách cá nhân trong một cuộc đàm thoại với đại sứ Trung Quốc, Chai Zemin, trong đó ông đã đe dọa rằng, trong trường hợp không có các vụ bán vũ khí của Mỹ, Đài Loan sẽ bị buộc phải nhờ cậy đến việc phát triển các vũ khí hạt nhân – như thể Hoa Kỳ đã không có ảnh hưởng gì trên các kế hoạch hay hành động của Đài Loan. In the end, normalization came about when Carter supplied a deadline by inviting Deng to visit Washington. Sau cùng, sự bình thường hóa đã xảy ra khi Carter cung cấp một hạn kỳ bằng việc mời họ Đặng sang thăm viếng Hoa Thịnh Đốn. Deng agreed with unspecified arms sales to Taiwan and did not contradict an American declaration that Washington expected the ultimate solution of the Taiwan issue to be peaceful—even though China had established an extended record that it would undertake no formal obligation to that effect. Họ Đặng đồng ý về các vụ bán vũ khí không xác định cho Đài Loan và đã không bác bỏ một sự tuyên bố của Mỹ rằng Hoa Thịnh Đốn đã kỳ vọng rằng giải pháp tối hậu cho vấn đề Đài Loan sẽ có tính chất hòa bình – ngay dù Trung Quốc đã đưa ra một tài liệu dài rằng nó sẽ không cam kết một nghĩa vụ chính thức nào trên căn bản đó. Beijing’s position remained, as Deng had stressed to Brzezinski, that “the liberation of Taiwan is an internal affair of China in which no foreign country has the right to interfere.” Lập trường của Bắc Kinh vẫn còn, như họ Đặng đã nhấn mạnh với Brzezinski, rằng “sự giải phóng Đài Loan một một công việc nội bộ của Trung Quốc trong đó không nước ngoài nào có quyền can thiệp”. Normalization meant that the American Embassy would move from Taipei to Beijing; a diplomat from Beijing would replace Taipei’s representative in Washington. Sự bình thường hóa có nghĩa rằng Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ sẽ di chuyển từ Đài Bắc sang Bắc Kinh; một nhà ngoại giao từ Bắc Kinh sẽ thay thế đại diện của Đài Bắc tại Hoa Thịnh Đốn.
19 minutes | May 29, 2020
Episode 374 - August 12 - Audio: 274 - Text: Touching The Tiger 16
The second thing is that it is imperative to try to upset the strategic deployment of Soviet aggression. Điều thứ nhì là bắt buộc phải cố gắng đảo lộn sự bố trí chiến lược của sự xâm lược Sô Viết. Because in order to obtain hegemony in the world the Soviet Union has first to obtain air and naval bases throughout the world, so it has to make [a] strategic deployment. Bởi vì để đoạt được bá quyền trên thế giới, Liên Bang Sô Viết trước tiên phải có được các căn cứ không và hải quân khắp nơi trên thế giới, vì thế nó phải thực hiện [một] sự bố trí chiến lược. And we must try to upset its plans for global deployment. Và chúng ta phải cố gắng làm đảo lộn các kế hoạch của nó nhằm bố trí trên toàn cầu. No member of the Atlantic Alliance had put forward a comparably sweeping call to joint—essentially preemptive—action or had indicated that it was prepared to act alone on its assessment. Không thành viên nào của Liên Minh Đại Tây Dương đã đưa ra một lời kêu gọi bao quát tương tự để hành động chung – chủ yếu để đánh phủ đầu -- hay cho thây rằng nó đã chuẩn bị để hành động một mình trên sự lượng định của nó. Operationally the Chinese leaders were proposing a kind of cooperation in many ways more intimate and surely more risk taking than the Atlantic Alliance. Về mặt hành động, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã đề nghị một loại hợp tác trong nhiều cách mật thiết hơn và chắc chắn chấp nhận nhiều rủi ro hơn Liên Minh Đại Tây Dương. They sought to implement the strategy of offensive deterrence described in earlier chapters. Họ tìm cách để thi hành chiến lược tấn công cấm chỉ (offensive deterrence) được mô tả trong các chương trước đây. Its special feature was that Deng proposed no formal structure or long-term obligation. Tính chất đặc biệt của nó là họ Đăng đã đề nghị cơ cấu chính thức hay nghĩa vụ dài hạn. A common assessment would supply the impetus for common action, but the de facto alliance would not survive if the assessments began to diverge—China insisted on being self-reliant even when in extreme danger. Một sự lượng định chung sẽ cung cấp các sự thúc đẩy cho hành động chung, nhưng liên minh trong thực tế sẽ không tồn tại nếu các sự lượng định bắt đầu dị biệt – Trung Quốc nhấn mạnh đến sự tự lực ngay khi ở trong tình trạng cực kỳ nguy hiểm. That China was so insistent on joint action despite the scathing criticism of specific American policies demonstrated that cooperation with the United States for security was perceived as imperative. Chính bởi Trung Quốc đã quá khăng khăng về hành động chung bất kể sự chỉ trích gay gắt về các chính sách Mỹ cá biệt cho thấy rằng sự hợp tác với Hoa Kỳ vì an ninh đã được nhận thức là khẩn thiết. Normalization emerged as a first step toward a common global policy. Sự bình thường hóa đã xuất hiện như một bước đầu tiên tiến đến một chính sách toàn cầu chung. From the time of the secret visit in July 1971, the Chinese conditions for normalization had been explicit and unchanging: withdrawal of all American forces from Taiwan; ending the defense treaty with Taiwan; and establishing diplomatic relations with China exclusively with the government in Beijing. Tù lúc có cuộc thăm viếng bí mật hồi Tháng Bảy 1971, các điều kiện của Trung Quốc cho sự bình thường hóa được công khai hóa và không thay đổi: sự triệt thoái tất cả các lực lượng Mỹ ra khỏi Đài Loan; chấm dứt hiệp ước phòng thủ với Đài Loan; và thiết lập các quan hệ ngoại giao với Trung Quốc, chỉ riêng với chính phủ tại Bắc Kinh không thôi. It had been part of the Chinese position in the Shanghai Communiqué. Nó đã là một phần của lập trường của Trung Quốc trong bản Thông Cáo Thượng Hải. Two Presidents—Richard Nixon and Gerald Ford—had agreed to these conditions. Hai vị Tổng Thống – Richard Nixon và Gerald Ford đã đồng ý với các điều kiện này. Nixon had indicated he would realize them in his second term. Tổng Thống Nixon cho thấy ông sẽ thực hiện chúng trong nhiệm kỳ thứ nhì của ông.
20 minutes | May 29, 2020
Episode 373 - August 11 - Audio: 273 - Text: Touching The Tiger 15
It is of no use for you to say so. Nó chẳng có ích gì khi ông nói như thế. To be candid with you, whenever you are about to conclude an agreement with the Soviet Union it is the product of [a] concession on the U.S. side to please the Soviet side. Xin thẳng thắn với ông, bất kỳ khi nào quý ông sắp sửa ký kết một thỏa ước với Liên Bang Sô Viết, đó chính là một sản phẩm của [một] sự nhượng bộ về phía Hoa Kỳ để làm vui lòng phía Sô Viết”. It was an extraordinary performance. Đó là một màn trình diễn khác thường. The country which was the principal target of the Soviet Union was proposing joint action as a conceptual obligation, not a bargain between nations, much less as a request. Xứ sở vốn đã mục tiêu chính yếu của Liên Bang Sô Viết đang đề nghị hành động chung như một nghĩa vụ theo quan niệm luận, không phải như một sự thương nghị giữa các nước, càng không phải như một yêu cầu. At a moment of great national danger—which its own analysis demonstrated—China nevertheless acted as an instructor on strategy, not as a passive consumer of American prescriptions, as America’s European allies frequently did. Vào thời khắc có sự nguy hiểm quốc gia lớn lao – điều mà sự phân tích của chính nó phơi bày – Trung Quốc tuy thế đã hành động như một giảng viên về chiến lược, không phải như một khách tiêu thụ thụ động các toa thuốc của Hoa Kỳ, giống như các đồng minh Âu Châu của Mỹ thường làm. The staples of much of the American debate—international law, multilateral solutions, popular consensus—were absent from the Chinese analysis except as practical tools to an agreed objective. And that objective, as Deng pointed out to Brzezinski, was “coping with the polar bear and that’s that.” Các chất liệu của phần lớn sự tranh luận của Mỹ -- luật quốc tế, các giải pháp đa phương, sự đồng thuận của dân chúng – thì vắng mặt trong sự phân tích của Trung Quốc ngoại trừ như các công cụ thực tiễn cho một mục tiêu đã đồng ý. Và mục tiêu đó, như họ Đặng đã vạch ra với Brzezinski, là “đối đầu với con gấu bắc cực và sự thể là như thế đó”. But for Americans there is a limit to the so-called realist approach in the fundamental values of American society. Nhưng đối với người Mỹ có một giới hạn với điều được gọi là khảo hướng hiện thực trong các giá trị nền tảng của xã hội Mỹ. And the murderous Khmer Rouge governing Cambodia represented such a limit. Và phe sát nhân Khmer Đỏ cai trị Căm Bốt tượng trưng cho một giới hạn như thế. No American President could treat the Khmer Rouge as another stone in the wei qi strategy. Không vị Tổng Thống Mỹ nào lại có thể đối xử với Khmer Đỏ như một viên đá khác trong chiến lược cờ vây (wei qi). Its genocidal conduct—driving the population of Phnom Penh into the jungle, mass killings of designated categories of civilians—could not simply be ignored (though as we shall see necessity did on occasion abort principle). Hành động diệt chủng của nó – xua đuổi dân chúng Nam Vang vào rừng, hạ sát tập thể các loại thường dân bị chỉ danh – không thể đơn giản được phớt lờ (mặc dù như chúng ta sẽ nhìn thấy sự bắt buộc đã xảy ra trong vấn đề nguyên tắc [về sự] phá thai) Hua Guofeng, still Premier, was even more emphatic in a meeting the next day: Hoa Quốc Phong, vẫn còn là Thủ Tướng, còn nhấn mạnh hơn nữa trong một phiên họp trong ngày kế đó: [W]e have also told a lot of our friends that the main danger of war comes from the Soviet Union. Chúng tôi có nói với nhiều thân hữu của chúng tôi rằng mối nguy hiểm chính của chiến tranh phát sinh từ Liên Bang Sô Viết. Then how should we deal with it? Khi đó làm sao chúng tôi đối phó với nó? The first thing is one should make preparations. Điều đầu tiên là người ta phải thực hiện các sự chuẩn bị … If one is prepared and once a war breaks out, one will not find himself in a disadvantageous position. Nếu người ta đã chuẩn bị và một khi chiến tranh bùng nổ, người đó sẽ không thấy mình ở vào một vị thế bất lợi.
23 minutes | May 29, 2020
Episode 372 - August 10 - Audio: 272 - Text: Touching The Tiger 14
Huang summed up the situation by invoking an old Chinese proverb: “appeasement” of Moscow, he said, was “like giving wings to a tiger to strengthen it.” Họ Hoàng đã tóm tắt tình hình bằng việc viện dẫn một châm ngôn cổ của Trung Quốc: “sự nhượng bộ” trước Mạc Tư Khoa, ông ta nói, thì “giống như chắp thêm cánh cho một con hổ để tăng cường sức mạnh cho nó”. But a policy of coordinated pressure would prevail, since the Soviet Union was “only outwardly strong but inwardly weak. Nhưng một chính sách của áp lực có phối hợp sẽ thắng thế, bởi vì Liên Bang Sô Viết đã “chỉ mạnh bề ngoài nhưng yếu bên trong. It bullies the weak and fears the strong.” Nó dọa nạt nước yếu và sợ các nước mạnh”. All this was to supply the context for Indochina. Tất cả điều này là để cung cấp khung cảnh cho Đông Dương. Huang addressed “the problem of regional hegemony.” Họ Hoàng đã nói đến “vấn đề bá quyền cấp miền”. America, of course, had trod this path a good ten years earlier. Mỹ, dĩ nhiên, đã giẫm chân trên con đường này khoảng gần mười năm trước đây. Vietnam aimed to dominate Cambodia and Laos and establish an Indochinese Federation—and “behind that there lies the Soviet Union.” Việt Nam đã nhắm thống trị Căm Bốt và Lào và thành lập một Liên Bang Đông Dương – và “đàng sau sự việc đó là Liên Bang Sô Viết”. Hanoi had already achieved a dominant position in Laos, stationing troops there and maintaining “advisors in every department and in every level in Laos.” Hà Nội đã sẵn đạt được một vị trí khống chế tại Lào, đang đồn trú binh sĩ ở đó và duy trì “các cố vấn ở mọi bộ và trong mọi cấp ở Lào”. But Hanoi had encountered resistance in Cambodia, which opposed Vietnamese regional ambitions. Nhưng Hà Nội đã gặp phải sự kháng cự tại Căm Bốt, nước chống đối các tham vọng cấp miền của Việt Nam. Vietnamese-Cambodian tension represented “not merely some sporadic skirmishes along the borders” but a major conflict which “may last for a long time.” Sự căng thẳng giữa Việt Nam – Căm Bốt tượng trưng “không chỉ một vài vụ đụng độ rời rạc dọc biên giới” mà là một cuộc xung đột lớn “có thể kéo dài trong một thời khoảng lâu dài”. Unless Hanoi gave up its goal of dominating Indochina, “the problem will not be solved in a short period.” Trừ khi Hà Nội từ bỏ mục đích của nó nhằm thống trị Đông Dương. “vấn đề sẽ không được giải quyết trong một thời kỳ ngắn ngủi”. Deng followed up the Huang Hua critique later that day. Họ Đặng đã tiếp nối sự phê bình của Hoàng Hoa sau đó trong cùng ngày. Concessions and agreements had never produced Soviet restraint, he warned Brzezinski. Các sự nhượng bộ và các thỏa ước sẽ không bao giờ tạo ra sự kiềm chế của Sô Viết, ông ta đã cảnh cáo Brzezinski. Fifteen years of arms control agreements had allowed the Soviet Union to achieve strategic parity with the United States. Mười lăm năm của các thỏa ước về vũ khí đã cho phép Liên Bang Sô Viết đạt được sự ngang bằng chiến lược với Hoa Kỳ. Trade with the Soviet Union meant that “the U.S. is helping the Soviet Union overcome its weaknesses.” Mậu dịch với Liên Bang Sô Viết có nghĩa rằng “Hoa Kỳ đang trợ giúp Liên Bang Sô Viết khắc phục các nhược điểm của nó”. Deng offered a mocking assessment of American responses to Soviet adventurism in the Third World and chided Washington for trying to “please” Moscow: Your spokesmen have constantly justified and apologized for Soviet actions. Họ Đặng đã đề nghị một sự lượng định chế diễu về các sự đáp ứng của Mỹ đối với chính sách phiêu lưu của Sô Viết tại Thế Giới Thứ Ba và quở trách Hoa Thịnh Đốn về việc cố gắng “làm vừa lòng” Mạc Tư Khoa: Các phát ngôn viên của ông thường trực biện minh và xin lỗi cho các hành động của Sô Viết. Sometimes they say there are no signs to prove that there is the meddling of the Soviet Union and Cuba in the case of Zaire or Angola. Đôi khi họ nói rằng không có các dấu hiệu chứng minh là có sự can thiệp của Liên Bang Sô Viết và Cuba trong trường hợp Cộng Hòa Zaire [tức Congo thuộc Bỉ trước đây, chú của người dịch] hay Angola.
22 minutes | May 29, 2020
Episode 371 - August 9 - Audio: 271 - Text: Touching The Tiger 13
Rather than appearing as a supplicant in what was, after all, a very difficult situation for China, Huang struck the attitude of a Confucian teacher, lecturing on how to conduct a comprehensive foreign policy. Thay vì xuất hiện như một kẻ khẩn nài trong điều là, sau hết, một tình trạng vô cùng khó khăn cho Trung Quốc, họ Hoàng đã có thái độ của một giáo viên Khổng học, thuyết giảng về cách thức để thực hiện một chính sách ngoại giao bao quát. He opened with a general assessment of the “contradictions” between the two superpowers, the futility of negotiations with the Soviet Union, and the inevitability of a world war: Ông ta mở đầu với một sự lượng định tổng quát về “các mâu thuẫn” giữa hai siêu cường, sự vô ích của các cuộc thương thảo với Liên Bang Sô Viết, và tính tất yếu của một cuộc thế chiến: The Soviet Union is the most dangerous source of war. Liên Bang Sô Viết là nguồn gốc nguy hiểm nhất của chiến tranh. Your excellency has mentioned that the Soviet Union is confronted with many difficulties. Ông đã đề cập rằng Liên Bang Sô Viết bị đối diện với nhiều khó khăn. That is true. Điều đó thì đúng. To strive for world hegemony is the fixed strategic goal of Soviet socialist imperialism. Gắng sức cho một bá quyền thế giới là mục đích chiến lược cố định của chủ nghĩa đế quốc xã hội Sô Viết. Although it may suffer a lot of setbacks, it will never give up its ambition. Mặc dù nó có thể phải gánh chịu nhiều sự thoái bộ, nó sẽ không bao giờ từ bỏ tham vọng của nó. Huang raised concerns that also bothered American students of strategy—especially those which tried to relate nuclear weapons to traditional ways of thinking about strategy. Họ Hoàng đã nêu lên các quan ngại cũng quấy rầy các sinh viên Mỹ về chiến lược – đặc biệt những ai cố gắng liên hệ các vũ khí hạt nhân với các phương cách suy nghĩ cổ truyền về chiến lựoc. Reliance on nuclear weapons would open up a gap between deterrent threats and the willingness to implement them: “As for the argument that the Soviet Union would not dare to use conventional arms for fear of nuclear attack from the West, this is only wishful thinking. Sự lệ thuộc vào các vũ khí hạt nhân sẽ mở ra một khoảng trống giữa các đe dọa cấm chỉ và sự sẵn lòng để thi hành chúng: “Về lập luận rằng Liên Bang Sô Viết sẽ không dám sử dụng các khí giới quy ước bởi lo sợ sự tấn công hạt nhân từ khối Tây, đây chỉ là một ý nghĩ ước mơ. To base a strategic stance on this thinking is not only dangerous but also unreliable.” Đặt một lập trường chiến lược trên ý nghĩ này không chỉ nguy hiểm mà còn không đáng tin cậy”. In the Middle East—“the flank of Europe” and a “source of energy in a future war”—the United States had failed to check Soviet advances. Tại Trung Đông – “cạnh sườn của Âu Châu” và một “nguồn năng lượng trong một cuộc chiến tranh tương lai” – Hoa Kỳ đã thất bại để ngăn chặn các bước tiến của Sô Viết. It had issued a joint statement on the Middle East with the Soviet Union (inviting regional states to a conference to explore the prospect of a comprehensive Palestinian settlement), “thus opening the door wide for the Soviet Union to further infiltrate the Middle East.” Nó đã đưa ra một bản tuyên bố chung về Trung Đông với Liên Bang Sô Viết (mời các quốc gia trong vùng đến dự một hội nghị để thăm dò triển vọng của một giải pháp toàn diện cho Palestine), “chính từ đó mở rộng cánh cửa cho Liên Bang Sô Viết để xâm nhập sâu hơn vào Trung Đông”. Washington had left President Anwar Sadat of Egypt—whose “bold action” had “created a situation unfavorable to the Soviet Union”—in a dangerous position and allowed the Soviet Union to “seize the chance to raise serious division among the Arab countries.” Hoa thịnh Đốn đã để cho Tổng Thống Anwar Sadat của Ai Cập – kẻ mà “hành động táo bạo” đã “tạo ra một tình trạng bất lợi cho Liên Bang Sô Viết” -- ở vào một vị thế nguy hiểm và đã cho phép Liên Bang Sô Viết “nắm lấy cơ hội để nâng cao sự phân hóa nghiêm trọng giữa các nước Ả Rập”.
16 minutes | May 29, 2020
Episode 370 - August 8 - Audio: 270 - Text: Touching The Tiger 12
Soviet pressures in Africa and the Middle East convinced the new President to opt for rapid normalization with China, by what amounted to the quest for a de facto strategic alliance with China. Các áp lực của Sô Viết tại Phi Châu và Trung Đông đã thuyết phục vị tân Tổng Thống lựa chọn sự bình thường hóa mau lẹ với Trung Quốc, bằng điều không khác gì lời yêu cầu một liên minh chiến lược trong thực tế với Trung Quốc. On May 17, 1978, Carter sent his National Security Advisor, Zbigniew Brzezinski, to Beijing with these instructions: Vào ngày 17 Tháng Năm 1978, Tổng Thống Carter đã phái viên Cố Vấn An Ninh Quốc Gia của ông, Zbigniew Brzezinski, sang Bắc Kinh với các chỉ thị này: You should stress that I see the Soviet Union as essentially in a competitive relationship with the United States, though there are also some cooperative aspects. Ông cần nhấn mạnh rằng tôi nhìn Liên Bang Sô Viết trong bản chất có một quan hệ cạnh tranh với Hoa Kỳ, tuy rằng cũng có một số khía cạnh hợp tác … To state it most succinctly, my concern is that the combination of increasing Soviet military power and political shortsightedness, fed by big-power ambitions. Để nói một cách cô đọng nhất, sự quan ngại của tôi rằng sự kết hợp của quyền lục quân sự Sô Viết gia tăng và sự thiển cận về chính trị, được nuôi dưỡng bởi các tham vọng đại cường. Might tempt the Soviet Union both to exploit local turbulence (especially in the Third World) and to intimidate our friends in order to seek political advantage and eventually even political preponderance. Có thể lôi cuốn Liên Bang Sô Viết đến cả việc khai thác sự xáo trộn địa phương (đặc biệt trong Thế Giới Thứ Ba) lẫn việc dọa nạt các thân hữu của chúng ta hầu tìm kiếm lợi thế chính trị và sau rốt ngay cả ưu thế chính trị. Brzezinski was also authorized to reaffirm the five principles enunciated by Nixon to Zhou in 1972. Brzezinski cũng được phép để tái khẳng định năm nguyên tắc được đề ra bởi Nixon với họ Chu trong năm 1972. Long a strong advocate of strategic cooperation with China, Brzezinski carried out his instructions with enthusiasm and skill. Một người bênh vực mạnh mẽ từ lâu cho sự hợp tác chiến lược với Trung Quốc, Brzezinski thi hành các chỉ thị của ông với lòng nhiệt thành và sự khéo léo. When he visited Beijing in May 1978 in pursuit of normalizing relations, Brzezinski found a receptive audience. Khi ông đén viếng thăm Bắc Kinh trong Tháng Năm 1978 để theo đuổi các quan hệ bình thường hóa, Brzezinski tìm thấy một thính giả đón nhận. Deng was eager to proceed with normalization to enlist Washington more firmly in a coalition to oppose, by means of what he called “real, solid, down-to-earth work,”13 Soviet advances in every corner of the globe. Họ Đặng thì hăng hái để xúc tiến việc bình thường hóa hầu chiêu mộ Hoa Thịnh Đốn một cách vững chắc hơn vào một liên hiệp chống lại, bằng điều mà ông gọi là “công việc cụ thể, chắc chắn và không viển vông”, các sự tiến bước của Sô Viết ở khắp mọi ngóc ngách của hoàn cầu. The Chinese leaders were deeply aware of the strategic dangers surrounding them; but they presented their analysis less as a national concern than as a broader view of global conditions. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận thức sâu xa về các mối nguy hiểm chiến lược bao quanh họ; nhưng họ đã trình bày sự phân tích của họ ít mang vẻ quan tâm quốc gia hơn là một cái nhìn bao quát về các tình trạng toàn cầu. “Turmoil under heaven,” the “horizontal line,” the “Three Worlds”: all represented general theories of international relations, not distinct national perceptions. “Sự xáo trộn dưới vòm trời”, “trục nằm ngang” “Ba Thế Giới”: tất cả đều tượng trưng cho các lý thuyết đại cương về các quan hệ quốc tế; không phải là các nhận thức dân tộc riêng biệt. Foreign Minister Huang Hua’s analysis of the international situation displayed a remarkable self-confidence. Sự phân tích của Bộ Trưởng Ngoại Giao Hoàng Hoa về tình hình quốc tế phô bày một sự tự tin rõ rệt.
21 minutes | May 29, 2020
Episode 369 - August 7 - Audio: 269 - Text: Touching The Tiger 11
Deng, in all conversations after his return, argued that, in resisting the thrust of Soviet policy toward Europe, China and Japan needed to be brought into a global design. Họ Đặng, trong tất cả các cuộc đàm thoại sau khi ông quay trở về, đã lập luận rằng, trong việc kháng cự mối đe dọa của chính sách của Sô Viết đối với Âu Châu, Trung Quốc và Nhật Bản cần phải được mang đặt vào trong một kế hoạch toàn cầu. However close the consultation had become between China and the United States, the anomaly continued that America still formally recognized Taiwan as the legitimate government of China and Taipei as the capital of China. Bất kể sự gần gủi đến đâu của sự tham khảo đã diễn ra giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, khoảng cách vẫn hiện diện rằng Mỹ còn chính thức thừa nhận Đài Loan như chính phủ chính thống của Trung Hoa và Đài Bắc như là thủ đô của Trung Hoa. China’s adversaries along its northern and southern borders might misconstrue the absence of recognition as an opportunity. Các đối thủ của Trung Quốc dọc theo các biên giới phía bắc và phía nam có thể giải thích sai lạc rằng sự thiếu vắng việc thừa nhận như là một cơ hội. Normalization of relations moved to the top of the Sino-American agenda as Jimmy Carter took office. Sự bình thường hóa các quan hệ đã di chuyển lên trên cùng trong nghị trình Trung Quốc – Mỹ khi Jimmy Carter đảm nhiệm chức vụ Tổng Thống. The first visit to Beijing of the new Secretary of State, Cyrus Vance, in August 1977 did not turn out well. Cuộc thăm viếng đầu tiên đến Bắc Kinh của tân Bộ Trưởng Ngoại Giao, Cyrus Vance, trong Tháng Tám 1977 đã không diễn tiến một cách tốt đẹp. “I left Washington,” he wrote in his memoirs: “Tôi rời Hoa Thịnh Đốn”, ông Vance đã viết trong tập hồi ký của mình: Believing it would be unwise to take on an issue as politically controversial as normalization with China until the Panama issue [referring to the ratification of the Panama Canal treaty turning over operation of the canal] was out of the way, unless—and I did not expect it to happen—the Chinese were to accept our proposal across the board. Tin tưởng rằng sẽ là điều không khôn ngoan để đảm nhận một vấn đề dễ gây tranh luận chính trị như sự bình thường hóa với Trung Quốc cho đến khi vấn đề Panama [chỉ sự phê chuẩn hiệp ước Kinh Đào Panama trao trả sự điều hành kinh đào] được thanh lý xong, trừ khi – và tôi đã không kỳ vọng nó sẽ xẩy ra -- phía Trung Quốc chấp nhận toàn thể đề nghị của của chúng ta. For political reasons, I intended to represent a maximum position to the Chinese on the Taiwan issue. Vì các lý do chính trị, tôi có ý định để phô bày một lập trường tối đa đối với Trung Quốc trên vấn đề Đài Loan … Accordingly, I did not expect the Chinese to accept our proposal, but I felt it wise to make it, even though we might eventually have to abandon it.10 Theo đó, tôi đã không kỳ vọng phía Trung Quốc chấp nhận đề nghị của chúng ta, nhưng tôi đã cảm thấy đó là điều khôn ngoan để làm như thế, cho dù rốt cuộc chúng ta có thể phải từ bỏ nó”. The American proposal on Taiwan contained a series of ideas involving retention of some limited American diplomatic presence on Taiwan that had been put forward and rejected during the Ford administration. 10 Đề nghị của Mỹ về Đài Loan chứa đựng một loạt các ý tưởng liên can đến sự duy trì một vài sự hiện diện ngoại giao hạn chế của Mỹ về Đài Loan đã được đưa ra và bị bác bỏ dưới thời chính quyền [Tổng Thống] Ford. The proposals were rejected again by Deng, who called them a step backward. Các đề nghị một lần nữa bị bác bỏ bởi họ Đặng, kẻ đã gọi chúng là một bước giựt lùi. A year later, the internal American debate ended when President Carter decided to assign high priority to the relationship with China. Một năm sau đó, cuộc tranh luận nội bộ phía Mỹ đã chấm dứt khi Tổng Thống Carter quyết định dành ưu tiên cao cho mối quan hệ với Trung Quốc.
17 minutes | May 29, 2020
Episode 368 - August 6 - Audio: 268 - Text: Touching The Tiger 10
He changed the Chinese position toward the Soviet Union from containment to explicit strategic hostility and, in effect, to roll-back. Ông đã thay đổi lập trường của Trung Quốc đối với Liên Bang Sô Viết từ sự ngăn chặn sang sự thù nghịch chiến lược công khai và, trong thực tế, đẩy lùi [nó]. China would no longer confine itself to advising the United States on how to contain the Soviet Union; it would now play an active role in constructing an anti-Soviet and anti-Vietnam coalition, especially in Asia. Trung Quốc sẽ không còn tự giới hạn mình vào việc cố vấn Hoa Kỳ về phương cách ngăn chặn Liên Bang Sô Viết; giờ đây nó sẽ đóng một vai trò tích cực trong việc xây dựng một liên hiệp chống Sô Viết và chống Việt Nam, đặc biệt tại Á Châu. It would put the pieces in place for a possible showdown with Hanoi. Nó sẽ sắp xếp các sự việc vào đúng chỗ cho một sự biểu dương khả hữu với Hà Nội. Deng’s Foreign Policy—Dialogue with America and Normalization Chính Sách Ngoại Giao Của Họ Đặng – Đối Thoại Với Mỹ Và Bình Thường Hóa When Deng returned from his second exile in 1977, he reversed Mao’s domestic policy but left Mao’s foreign policy largely in place. Khi họ Đặng quay trở lại từ cuộc lưu đầy thứ nhì trong năm 1977, ông đã đảo ngược chính sách đối nội của họ Mao nhưng giữ lại phần lớn chính sách ngoại giao của họ Mao. This was because both shared strong national feelings and had parallel views of the Chinese national interest. Điều này xảy ra bởi cả hai cùng chia sẻ các cảm nhận dân tộc mạnh mẽ và đã có các quan điểm tương tự về quyền lợi quốc gia của Trung Quốc. It was also because foreign policy had set more absolute limits to Mao’s revolutionary impulses than domestic policy. Nó cũng đã xảy ra bởi chính sách ngoại giao đã đặt ra nhiều giới hạn tuyệt đối đối với các xung động cách mạng của họ Mao nhiều hơn chính sách đối nội. There was, however, a significant difference in style between Mao’s criticism and Deng’s. Tuy nhiên, đã có một sự khác biệt đáng kể về phong cách giữa sự phê bình của họ Mao và họ Đặng. Mao had questioned the strategic intentions of America’s Soviet policy. Họ Mao đã tra vấn về các chủ định chiến lược trong chính sách đối với Sô Viết của Mỹ. Deng assumed an identity of strategic interests and concentrated on achieving a parallel implementation. Họ Đặng giả định một sự đồng nhất về các quyền lợi chiến lược và đã tập trung vào việc giành đạt được một sự thi hành tương tự. Mao dealt with the Soviet Union as a kind of abstract strategic threat whose menace was no more applicable to China than to the rest of the world. Họ Mao đối phó với Liên Bang Sô Viết như một loại hăm dọa chiến lược trừu tượng mà sự dọa nạt không áp dụng nhiều đối với Trung Quốc cho bằng phần còn lại của thế giới. Deng recognized the special danger to China, especially an immediate threat at China’s southern border compounding a latent threat in the north. Họ Đặng đã nhìn nhận mối nguy hiểm đặc biệt đối với Trung Quốc, nhất là một mối đe dọa trực tiếp ở biên giới phía nam Trung Quốc cộng với một sự đe dọa tiềm tàng ở phía bắc. Dialogue therefore took on a more operational character. Sự đối thoại vì thế mang một tính chất hoạt động hơn. Mao acted like a frustrated teacher, Deng as a demanding partner. Họ Mao hành động như một giáo viên tuyệt vọng, họ Đặng như một đối tác đòi hỏi hơn. In the face of actual peril, Deng ended the ambivalence about the American relationship of Mao’s last year. Đối diện với mối hiểm nghèo thực sự, họ Đặng đã chấm dứt sự mâu thuẫn về mối quan hệ với Mỹ trong năm cuối cùng của họ Mao. There was no longer any Chinese nostalgia for opportunities on behalf of world revolution. Không còn bất kỳ sự hoài niệm nào của Trung Quốc về các cơ hội nhân danh cách mạng thế giới.
17 minutes | May 29, 2020
Episode 367 - August 5 - Audio: 267 - Text: Touching The Tiger 9
In Beijing’s perception, such agreements served to “push the ill waters of the Soviet Union eastward” toward China. Trong sự nhận thức của Bắc Kinh, các thỏa ước như thế phục vụ cho việc “đẩy các dòng nước độc hại của Liên Bang Sô Viết hướng về phía đông” đến Trung Quốc. China seemed to be in an exceptionally vulnerable position. Trung Quốc xem ra sẽ ở vào một vị thế dễ bị xâm hại một cách khác thường. Now Vietnam had joined the Soviet camp. Giờ đây Việt Nam đã gia nhập vào cánh Sô Viết. The “unforeseeable outcomes” predicted by Pham Van Dong to Zhou in 1968 appeared to include Soviet encirclement of China. “Các kết cuộc không thể nhìn trước được” được tiên đoán bởi Phạm Văn Đồng với họ Chu trong năm 1968 rõ ràng bao gồm sự bao vây của Sô Viết đối với Trung Quốc. An additional complication was that all these challenges occurred while Deng was still consolidating his position in his second return to power—a process not completed until 1980. Một sự phúc tạp bổ túc là tất cả các sự thách đố này đã diễn ra trong lúc họ Đặng vẫn còn đang củng cố vị thế của ông ta trong đợt quay lại nắm quyền lần thứ nhì – một tiến trình không hoàn tất cho đến năm 1980. A principal difference between Chinese and Western diplomatic strategy is the reaction to perceived vulnerability. Một sự khác biệt chính yếu giữa chiến lược ngoại giao của Trung Quốc và Tây Phương là phản ứng đối với tính khả dĩ bị xâm hại nhận thức được. American and Western diplomats conclude that they should move carefully to avoid provocation; Chinese response is more likely to magnify defiance. Các nhà ngoại giao Mỹ và Tây Phương kết luận rằng họ phải tiến bước một cách thận trọng để né tránh sự khiêu khích; sự đáp ứng của Trung Quốc nhiều phần sẽ làm lớn hơn sự thách đố. Western diplomats tend to conclude from an unfavorable balance of forces an imperative for a diplomatic solution; Các nhà ngoại giao Tây Phương có khuynh hướng để kết luận, từ một cán cân lực lượng không thuận lợi, về một mệnh lệnh cho một giải pháp ngoại giao; They urge diplomatic initiatives to place the other side in the “wrong” to isolate it morally but to desist from the use of force—this was essentially the American advice to Deng after Vietnam invaded Cambodia and occupied it. Họ đã thúc giục các sáng kiến ngoại giao để đặt phía bên kia vào chỗ “sai trái” nhằm cô lập nó về mặt tinh thần nhưng từ bỏ sự sử dụng vũ lực – đây thực sự là lời khuyến cáo của Mỹ cho họ Đặng sau khi Việt Nam xâm lăng Căm Bốt và chiếm đóng xứ này. Chinese strategists are more likely to increase their commitment to substitute courage and psychological pressure against the material advantage of the adversary. Các chiến lược gia Trung Quốc nhiều phần sẽ gia tăng sự cam kết của họ để thay thế cho sự can đảm và áp lực tâm lý chống lại lợi thế cụ thể của đối phương. They believe in deterrence in the form of preemption. Họ tin tưởng nơi sự cấm chỉ dưới hình thức đánh phủ đầu. When Chinese planners conclude that their opponent is gaining unacceptable advantage and that the strategic trend is turning against them, they respond by seeking to undermine the enemy’s confidence and allow China to reclaim the psychological, if not material, upper hand. Khi các nhà hoạch định Trung Quốc kết luận rằng đối thủ của họ đang giành đoạt lợi thế không thể chấp nhận được và rằng chiều hướng chiến lược đang quay ngược lại họ, họ đáp ứng bằng cách theo đuổi việc triệt hạ sự tự tin của địch thủ và cho phép Trung Quốc thu hồi thế thượng phong về tâm lý, nếu không phải về mặt cụ thể. Faced with a threat on all fronts, Deng decided to go on the diplomatic and strategic offensive. Đối diện với một sự đe dọa ở mọi mặt trận, họ Đặng đã quyết định tiến hành cuộc tấn công chiến lược và ngoại giao. Though not yet in complete control in Beijing, he moved daringly on several levels abroad. Mặc dù vẫn chưa kiểm soát hoàn toàn tại Bắc Kinh, ông ta đã di chuyển một cách táo bạo trên vài mức độ ở hải ngoại.
20 minutes | May 29, 2020
Episode 366 - August 4 - Audio: 266 - Text: Touching The Tiger 8
Freed from the necessity of feigning Communist solidarity in the face of the American “imperialist” threat, the adversaries moved into open opposition to each other soon after the fall of Saigon in April 1975. Được giải thoát khỏi nhu cầu liên đới Cộng Sản giả tạo trong sự đối diện với mối de dọa “đế quốc chủ nghĩa” của Mỹ, các đối thủ đã tiến tới sự chống đối lẫn nhau công khai không lâu sau sự sụp đổ của Sàigòn hồi Tháng Tư 1975. Within six months of the fall of all of Indochina, 150,000 Vietnamese were forced to leave Cambodia. Trong vòng sáu tháng sau sự sụp đổ của toàn thể Đông Dương, 150000 người Việt Nam đã bị buộc phải rời khỏi Căm Bốt. A comparable number of ethnically Chinese Vietnamese citizens were obliged to flee Vietnam. Một số lượng tương tự các công dân Việt Nam gốc Hoa bị buộc phải chạy trốn khỏi Việt Nam. By February 1976, China ended its aid program to Vietnam, and a year later, it cut off any deliveries based on existing programs. Vào Tháng Hai 1976, Trung Quốc đã chấm dứt chương trình viện trợ của nó cho Việt Nam, và một năm sau đó, nó đã căt đứt bất kỳ sự chuyển giao nào dựa trên các chương trìnhhiện có. Concurrently, Hanoi moved toward the Soviet Union. Cùng lúc, Hà Nội đã hướng đén Liên Bang Sô Viết. At a meeting of the Vietnamese Politburo in June 1978, China was identified as Vietnam’s “principal enemy.” Tại một phiên họp của Bộ Chính Trị Việt Nam hồi Tháng Sáu 1978, Trung Quốc đã bị xác định là “kẻ thù chính” của Việt Nam. The same month, Vietnam joined Comecon, the Soviet-led trade bloc. Trong cùng tháng đó, Việt Nam đã gia nhập khối Comecon, khối mậu dịch do Sô Viết cầm đầu. In November 1978, the Soviet Union and Vietnam signed the Treaty of Friendship and Cooperation, which contained military clauses. Trong Tháng Mười Một 1978, Liên Bang Sô Viết và Việt Nam đã ký kết Hiệp Ước Hợp Tác và Hữu nghị, có chứa đựng các điều khoản về quân sự. In December 1978, Vietnamese troops invaded Cambodia, overthrowing the Khmer Rouge and installing a pro-Vietnamese government. Trong Tháng Mười Hai 1978, bộ đội Việt Nam đã xâm lăng Căm Bốt, lật đổ phe Khmer Đỏ, và dựng lên một chính phủ thân Việt Nam. Ideology had disappeared from the conflict. Ý thức hệ đã biến mất khỏi cuộc xung đột. The Communist power centers were conducting a balance-of-power contest based not on ideology but on national interest. Các trung tâm quyền lực Cộng Sản đang thực hiện một cuộc tranh giành cán cân quyền lực không dựa trên ý thức hệ mà dựa trên quyền lợi quốc gia. Viewed from Beijing, a strategic nightmare was evolving along China’s borders. Nhìn từ Bắc Kinh, một cơn ác mộng chiến lược đang tiến triển dọc các biên giới của Trung Quốc. In the north, the Soviet buildup continued unabated: Moscow still maintained nearly fifty divisions along the border. Tại phía bắc, sự củng cố của Sô Viết tiếp tục không suy giảm: Mạc Tư Khoa vẫn duy trì gần năm mươi sư đoàn dọc biên giới. To China’s west, Afghanistan had undergone a Marxist coup and was subjected to increasingly overt Soviet influence.9 Beijing also saw Moscow’s hand in the Iranian revolution, which culminated with the flight of the Shah on January 16, 1979. Tại phía tây của Trung Quốc, A Phú Hãn đã trải qua một cuộc đảo chính Mác Xít và chịu ảnh hưởng Sô Viết ngày càng công khai. 9 Bắc Kinh cũng nhìn thấy bàn tay của Mạc Tư Khoa trong cuộc cách mạng tại Iran, lên đến cực điểm với sự bỏ chạy của Quốc Vương Iran (Shah) vào ngày 16 Tháng Một, 1979. Moscow continued to push an Asian collective security system with no other plausible purpose than to contain China. Mạc Tư Khoa tiếp tục thúc đẩy một hệ thống an ninh tập thể tại Á Châu với không mục đích khả tín nào khác hơn là để ngăn chặn Trung Quốc. Meanwhile, Moscow was negotiating the SALT II treaty with Washington. Trong khi đó, Mạc Tư Khoa đang thương thảo Hiệp Ước SALT II với Hoa Thịnh Đốn.
20 minutes | May 29, 2020
Episode 365 - August 3 - Touching The Tiger 7
And it recoiled before them. Và nó đã co vòi trước chúng. The outcome in Indochina merged with the permanent Chinese fear of encirclement. Kết cuộc tại Đông Dương hòa nhập với nỗi lo sợ thường trực của Trung Quốc về sự bao vây. Preventing an Indochina bloc linked to the Soviet Union became the dominant preoccupation of Chinese foreign policy under Deng and a link to increased cooperation with the United States. Việc ngăn chặn một khối Đông Dương được nối kết với Liên Bang Sô Viết đã trở thành mối bận tâm vượt trội của chính sách ngoại giao Trung Quốc dưới thời họ Đặng và là một mối dây nối kết với sự hợp tác gia tăng với Hoa Kỳ. Hanoi, Beijing, Moscow, and Washington were playing a quadripartite game of wei qi. Hà Nội Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa, và Hoa Thịnh Đốn đang chơi một trận đánh cờ vây (wei qi: vi kỳ) bốn bên. Events in Cambodia and in Vietnam would determine who would wind up surrounded and neutralized: Beijing or Hanoi. Các biến cố tại Căm Bốt và tại Việt Nam sẽ xác định ai là kẻ sẽ sau hết bị bao vây và trung lập hóa: Bắc Kinh hay Hà Nội. Beijing’s nightmare of encirclement by a hostile power appeared to be coming true. Cơn ác mộng bị bao vây của Bắc Kinh bởi một quyền lực thù nghịch rõ ràng đã trở thành sự thực. Vietnam alone was formidable enough. Việt Nam không thôi đã đủ đáng nể sợ. But if it realized its aim of an Indochinese Federation, it would approach a bloc of 100 million in population and be in a position to bring significant pressure on Thailand and other Southeast Asian states. Nhưng nếu nó thực hiện mục tiêu của nó về một Liên Bang Đông Dương, nó sẽ tiến tới một khối có dân số 100 triệu người, và sẽ ở vào một vị thế tạo áp lực đáng kể trên Thái Lan và các quốc gia Đông Nam Á khác. In this context, the independence of Cambodia as a counterweight to Hanoi became a principal Chinese objective. Trong khung cảnh này, sự độc lập của Căm Bốt như một đối lực với Hà Nội trở thành một mục tiêu chính yếu của Trung Quốc. As early as August 1975—three months after the fall of Saigon—Deng Xiaoping told the visiting Khmer Rouge leader Khieu Samphan: Ngày từ Tháng Tám 1975—ba tháng sau khi có sự sụp đổ của Sàigòn—Đặng Tiểu Bình có nói với nhà lãnh đạo Khmer Đỏ đang sang thăm, Khieu Samphan: “[W]hen one superpower [the United States] was compelled to withdraw its forces from Indochina, the other superpower [the Soviet Union] seized the opportunity… to extend its evil tentacles to Southeast Asia… in an attempt to carry out expansion there.” “Khi một siêu cường [Hoa Kỳ] bị buộc phải triệt thoái các lực lượng của nó ra khỏi Đông Dương, siêu cường khác [Liên Bang Sô Viết] đã nắm lấy cơ hội … để vươn các vòi độc ác của nó đến Đông Nam Á … trong một mưu toan nhằm thực hiện sự bành trướng ở đó”. Cambodia and China, Deng said, “both.. . face the task of combating imperialism and hegemonies. Căm Bốt và Trung Quốc, họ Đặng nói, “cả hai … đều đối diện với công tác chiến đấu chống lại chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa bá quyền … We firmly believe that... our two peoples will unite even more closely and march together towards new victories in the common struggle.” Chúng ta vững tin rằng … hai dân tộc chúng ta sẽ đoàn kết chặt chẽ hơn nữa và cùng tiến bước đến các sự chiến thắng mới trong cuộc đấu tranh chung”. During a March 1976 visit of Lao Prime Minister Kaysone Phomvihane to Beijing, Hua Guofeng, then Premier, warned of the Soviet Union to the effect that: Trong một cuộc thăm viếng hồi Tháng Ba 1976 của Thủ Tướng Lào Kaysone Phomvihane tại Bắc Kinh, Hoa Quốc Phong, khi đó là Thủ Tướng, đã cảnh cáo về Liên Bang Sô Viết một cách cơ bản rằng: “In particular, the superpower that hawks ‘détente’ while extending its grabbing claws everywhere is stepping up its armed expansion and war preparations and attempting to bring more countries into its sphere of influence and play the hegemonic overlord.” “Đặc biệt, siêu cường tuyên truyền “hòa hoãn” trong khi vươn các móng vuốt chụp bắt ở mọi nơi đang xúc tiến sự bành trướng vũ trang của nó và cá
18 minutes | May 29, 2020
Episode 364 - August 2 - Touching The Tiger 6
Hanoi’s latent hostility to its then ally was brought home to me on a visit to Hanoi in February 1973 designed to work out the implementation of the Paris Agreement, which had been initialed two weeks earlier. Sự thù nghịch ngấm ngầm của Hà Nội đối với đồng minh của nó khi đó được tỏ rõ với tôi trong một cuộc thăm viếng Hà Nội hồi Tháng Hai 1973, được trù liệu để giải quyết sự thi hành Hiệp Định Paris, vốn được ký kết hai tuần trước. Le Duc Tho took me on a visit to Hanoi’s national museum primarily to show me the sections devoted to Vietnam’s historic struggles against China—still formally an ally of Vietnam. Lê Đức Thọ đã đưa tôi đi thăm bảo tàng viện quốc gia của Hà Nội, chủ yếu để chỉ cho tôi thấy các phần dành cho các cuộc đấu tranh lịch sử của Việt Nam chống lại Trung Quốc – vẫn chính thức là một đồng minh của Việt Nam. With the fall of Saigon in 1975, the inherent and historic rivalries burst into the open, leading to a victory of geopolitics over ideology. Với sự sụp đổ của Sàigòn trong năm 1975, các sự tranh giành lịch sử và cố hữu bùng nổ thành công khai, dẫn đến một sự chiến thắng của địa chính trị trên ý thức hệ. It proved that the United States was not alone in wrongly assessing the significance of the Vietnam War. Nó đã chứng tỏ rằng Hoa Kỳ không đơn độc trong việc lượng định một cách sai lầm ý nghĩa của Chiến Tranh Việt Nam. When the United States had first intervened, China viewed it as a kind of last gasp of imperialism. Khi Hoa Kỳ vừa mới can thiệp lần đầu, Trung Quốc đã nhìn nó như một kiểu hắt hơi sau cùng của chủ nghĩa đế quốc. It had—almost routinely—cast its lot with Hanoi. Nó đã – gần như thường lệ -- buộc số phận của nó với Hà Nội. It interpreted the American intervention as another step toward the encirclement of China—much as it had viewed the U.S. intervention in Korea a decade earlier. Nó đã giải thích sự can thiệp của Hoa Kỳ như một bước tiến nữa đến sự bao vây Trung Quốc – giống như nó đã nhìn sự can thiệp của Hoa Kỳ tại Triều Tiên một thập niên trước đó. Ironically, from a geopolitical point of view, Beijing’s and Washington’s long-term interests should have been parallel. Một cách mỉa mai, từ một quan điểm địa chính trị, các quyền lợi trường kỳ của Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn phải song hành với nhau. Both should have preferred the status quo, which was an Indochina divided among four states. Cả hai đều ưa thích sự duy trì nguyên trạng (status quo), tức một Đông Dương được phân chia giữa bốn quốc gia. Washington resisted Hanoi’s domination of Indochina because of the Wilsonian idea of global order—the right of self-determination of existing states—and the notion of a global Communist conspiracy. Hoa Thịnh Đốn đã kháng cự sự thống trị của Hà Nội tại Đông Dương bởi ý tưởng từ thời [Tổng Thống] Wilson về trật tự toàn cầu – quyền tự quyết của các quốc gia hiện hữu – và khái niệm về một âm mưu Cộng Sản toàn cầu. Beijing had the same general objective, but from the geopolitical point of view, because it wanted to avoid the emergence of a Southeast Asia bloc on its southern border. Bắc Kinh đã có cùng mục tiêu tổng quát, nhưng từ quan điểm địa chính trị, bởi vì nó đã muốn né tránh sự xuất hiện của một khối Đông Nam Á ở biên giới phía nam của nó. For a while, Beijing seemed to believe that Communist ideology would trump a thousand-year history of Vietnamese opposition to Chinese predominance. Trong một lúc, Bắc Kinh dường như tin tưởng rằng ý thức hệ Cộng Sản sẽ đánh thắng một lịch sử nghìn năm chống đối của Việt Nam đối với sự chế ngự của Trung Hoa. Or else it did not think it possible that the United States could be brought to total defeat. Hoặc nó đã không nghĩ rằng có khi nào mà Hoa Kỳ lại có thể bị dẫn tới một sự bại trận hoàn toàn. In the aftermath of the fall of Saigon, Beijing was obliged to face the implications of its own policy. Với hậu quả của sự sụp đổ của Sàigòn, Bắc Kinh bị buộc phải đối diện với các hàm ý trong chính sách của chính nó.
18 minutes | May 29, 2020
Episode 363 - August 1 - Touching The Tiger 5
Cultural proximity may account for the relative absence of the sure touch in strategic analysis that usually guided Chinese policy during America’s Vietnam War. Sự gần gũi văn hóa có thể chịu trách nhiệm cho sự vắng bóng tương đối của sự chứng thực kỹ lưỡng trong sự phân tích chiến lược vốn thường hướng dẫn chính sách Trung Quốc trong suốt cuộc Chiến Tranh Việt Nam của Mỹ. Ironically, Beijing’s long-term strategic interest was probably parallel to Washington’s: an outcome in which four Indochinese states (North and South Vietnam, Cambodia, and Laos) balanced each other. Một cách mỉa mai, quyền lợi chiến lược dài hạn của Bắc Kinh có thể tương đồng với quyền lợi của Hoa Thịnh Đốn: một kết cuộc trong đó bốn quốc gia Đông Dương (Bắc và Nam Việt Nam, Căm Bốt và Lào) cân đối lẫn nhau. This may explain why Mao, in outlining possible outcomes of the war to Edgar Snow in 1965, listed an outcome preserving South Vietnam as possible and, therefore, presumably acceptable. Điều này có thể giải thích lý do tại sao họ Mao, khi phác họa các kết cuộc khả hữu của cuộc chiến với Edgar Snow trong năm 1965, đã liệt kê một kết cuộc duy trì Nam Việt Nam là khả hữu và, do đó, được giả định có thể chấp nhận được. During my secret trip to Beijing in 1971, Zhou explained China’s objectives in Indochina as being neither strategic nor ideological. Trong cuộc du hành bí mật của tôi đến Bắc Kinh trong năm 1971, họ Chu đã giải thích các mục tiêu của Trung Quốc tại Đông Dương là không có tính chất chiến lược hay ý thức hệ. According to Zhou, Chinese policy in Indochina was based entirely on a historical debt incurred by ancient dynasties. Theo họ Chu, chính sách của Trung Quốc tại Đông Dương được đặt hoàn toàn trên một món nợ lịch sử bị vướng mắc bởi các triều đại cổ xưa. China’s leaders probably assumed that America could not be defeated and that the north of a divided Vietnam would come to depend on Chinese support much as North Korea did after the end of the Korean War. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc có lẽ đã giả định rằng Mỹ không thể bị bại trận và rằng miền bắc của một Việt Nam bị phân chia sẽ đi đến việc lệ thuộc vào sự ủng hộ của Trung Quốc nhiều như Bắc Hàn đã lệ thuộc sau khi chấm dứt Chiến Tranh Triều Tiên. As the war evolved, there were several signs that China was preparing itself—albeit reluctantly—for Hanoi’s victory. Khi cuộc chiến tiếp diễn, đã có vài dấu hiệu rằng Trung Quốc đã tự chuẩn bị -- mặc dù miễn cưỡng – cho sự chiến thắng của Hà Nội. Intelligence noticed Chinese road building in northern Laos that had no relevance to the ongoing conflict with the United States but would be useful for postwar strategy to balance Hanoi or even a possible conflict over Laos. Tình báo ghi nhận sự xây dựng đường xá Trung Quốc tại miền bắc Lào là không có liên quan gì đến cuộc xung đột đang tiếp diễn với Hoa Kỳ, nhưng sẽ hữu dụng cho chiến lược hậu chiến tranh để đối cân với Hà Nội hay ngay cả một cuộc xung đột khả hữu trên nước Lào. In 1973, after the Paris Agreement to end the Vietnam War, Zhou and I were negotiating a postwar settlement for Cambodia based on a coalition among Norodom Sihanouk (the exiled former ruler of Cambodia residing in Beijing), the existing Phnom Penh government, and the Khmer Rouge. Trong năm 1973, sau Hiệp Định Paris chấm dứt Chiến Tranh Việt Nam, họ Chu và tôi đang thương thảo một giải pháp hậu chiến cho Căm Bốt dựa trên một liên hiệp giữa Norodom Sihanouk (nhà cựu lãnh đạo Căm Bốt lưu vong, cư trú tại Bắc Kinh), chính phủ đương quyền tại Nam Vang, và phe Khmer Đỏ. Its main purpose was to create an obstacle to a takeover of Indochina by Hanoi. Mục đích chính của nó là tạo lập một chướng ngại vật cho một sự chiếm đoạt Đông Dương bởi Hà Nội. The agreement ultimately aborted when the U.S. Congress in effect prohibited any further military role for America in the region, making the American role irrelevant.5 Sự thỏa thuận sau hết đã bị yểu tử khi Quốc Hội Hoa Kỳ trong thực tế đã ngăn cấm bất kỳ vai trò quân sự nào khác cho Mỹ trong
18 minutes | May 29, 2020
Episode 362 - July 31 - Touching The Tiger 4
Vietnam had used these “Chinese” institutions, however, to build a separate state and bolster its own independence. Tuy nhiên, Việt Nam đã sử dụng các định chế “Trung Hoa” này để xây dựng một quốc gia riêng biệt và củng cố nền độc lập của riêng mình. Geography did not allow Vietnam to retreat into isolation as Japan had at a comparable period in its history. Địa dư đã không cho phép Việt Nam rút lui về sự cô lập như Nhật Bản đã từng làm ở những thời kỳ tương tự trong lịch sử của nó. From the second century B.C. through the tenth century, Vietnam was under more or less direct Chinese rule, reemerging fully as an independent state only with the collapse of the Tang Dynasty in the year 907. Từ thế kỷ thứ nhì trước Công Nguyên cho đến thế kỷ thứ mười, Việt Nam nằm dưới sự cại trị ít nhiều trực tiếp của Trung Hoa, đã chỉ vùng lên một cách trọn vẹn như một quốc gia độc lập với sự sụp đổ của triều đại nhà Đường trong năm 907. Vietnamese national identity came to reflect the legacy of two somewhat contradictory forces: on the one hand, absorption of Chinese culture; on the other, opposition to Chinese political and military domination. Căn cước dân tộc Việt Nam đã kết tụ để phản ảnh di sản của hai lực lượng phần nào mâu thuẫn nhau: một mặt, sự hấp thụ văn hóa Trung Hoa; mặt khác, sự chống đối việc đô hộ quân sự và chính trị của Trung Hoa. Resistance to China helped produce a passionate pride in Vietnamese independence and a formidable military tradition. Sự kháng cự Trung Quốc đã trợ lực vào việc sản sinh ra một niềm tự hào nhiệt thành trong sự độc lập của Việt Nam và một truyền thống quân sự đáng vị nể. Absorption of Chinese culture provided Vietnam with a Chinese-style Confucian elite who possessed something of a regional Middle Kingdom complex of their own vis-à-vis their neighbors. Sự hấp thụ văn hóa Trung Hoa đã mang lại cho Việt Nam một giới tinh hoa Khổng học theo kiểu Trung Hoa sở đắc một điều gì đó của một mặc cảm Vương Quốc Trung Tâm cấp miền của chính họ đối với các lân bang. During the Indochina wars of the twentieth century, Hanoi displayed its sense of political and cultural entitlement by availing itself of Lao and Cambodian neutral territory as if by right and, after the war, extending “special relationships” with the Communist movements in each of these countries, amounting to Vietnamese dominance. Trong các cuộc chiến tranh Đông Dương của thế kỷ thứ hai mươi, Hà Nội đã phô bày cảm thức của nó về phẩm cách văn hóa và chính trị qua việc lợi dụng lãnh thổ trung lập của Lào và Căm Bốt như thể là hợp lý và, sau chiến tranh, nối dài “các mối quan hệ đặc biệt” với các phong trào Cộng Sản tại mỗi nước này, đến mức độ chẳng khác nào sự thống trị của Việt Nam. Vietnam confronted China with an unprecedented psychological and geopolitical challenge. Việt Nam đã đối đầu với Trung Quốc với một sự thách đố địa chính trị và tâm lý chưa từng có. Hanoi’s leaders were familiar with Sun Tzu’s Art of War and employed its principles to significant effect against both France and the United States. Các nhà lãnh đạo Hà Nội quen thuộc với Binh Pháp của Tôn Tử và đã sử dụng các nguyên tắc của nó với hiệu quả đáng kể chống lại cả nước Pháp lẫn Hoa Kỳ. Even before the end of the long Vietnam wars, first with the French seeking to reclaim their colony after World War II, and then with the United States from 1963 to 1975, both Beijing and Hanoi began to realize that the next contest would be between themselves for dominance in Indochina and Southeast Asia. Ngay trước khi chấm dứt các cuộc chiến tranh Việt Nam kéo dài, trước tiên với người Pháp tìm cách thu hồi thuộc địa của họ sau Thế Chiến II, và sau đó với Hoa Kỳ từ 1963 đến 1975, cả Bắc Kinh lẫn Hà Nội đều bắt đầu nhận thức rằng cuộc tranh chấp sắp tới sẽ là giữa họ với nhau để khống chế Đông Dương và Đông Nam Á.
23 minutes | May 29, 2020
Episode 361 - July 30 - Touching The Tiger 3
China supported the North Vietnamese guerrilla war, partly for reasons of ideology, partly in order to push American bases as far from Chinese borders as possible. Trung Quốc đã ủng hộ cuộc chiến tranh du kích của Bắc Việt, một phần vì các lý do ý thức hệ, một phần để đẩy lùi các căn cứ Mỹ cách xa các biên giới Trung Quốc càng nhiều càng tốt. Zhou Enlai told North Vietnamese Prime Minister Pham Van Dong in April 1968 that China supported North Vietnam to prevent the strategic encirclement of China, to which Pham Van Dong gave an equivocal reply—largely because preventing the encirclement of China was not a Vietnamese objective and Vietnamese objectives were national ones: Chu Ân Lai có nói với Thủ Tướng Bắc Việt Phạm Văn Đồng hồi Tháng Tư 1968 rằng Trung Quốc đã ủng hộ Bắc Việt để ngặn chặn sự bao vây chiến lược nhắm vào Trung Quốc, điều mà Phạm Văn Đồng đã đưa ra một sự trả lời lấp lửng – phần lớn bởi việc ngăn chặn sự bao vây Trung Quốc đã không phải là một mục tiêu của Việt Nam và các mục tiêu của Việt Nam là những mục tiêu có tính cách dân tộc: ZHOU: For a long time, the United States has been halfencircling China. CHU: Trong thời gian dài, Hoa Kỳ đã bao vây phân nửa Trung Quốc. Now the Soviet Union is also encircling China. Giờ đây Liên Bang Sô Viết cũng đang bao vây Trung Quốc. The circle is getting complete, except [the part of] Vietnam. Sự bao vây đang trở nên trọn vẹn, ngoại trừ [phần thuộc] Việt Nam. PHAM: We are all the more determined to defeat the US imperialists in all of Vietnamese territory. PHẠM: Chúng tôi tất cả đều quyết tâm hơn để đánh bại đế quốc Hoa Kỳ trên toàn lãnh thổ Việt Nam. ZHOU: That is why we support you. CHU: Đó là lý do tại sao chúng tôi ủng hộ các ông. PHAM: That we are victorious will have a positive impact in Asia. PHẠM: Khi chúng tôi chiến thắng điều đó sẽ có một tác động tích cực tại Á Châu. Our victory will bring about unforeseeable outcomes. Cuộc chiến thắng của chúng tôi sẽ mang lại các kết cuộc không thể tiên đoán được. ZHOU: You should think that way. CHU: Ông nên nghĩ theo cách đó. In pursuit of a Chinese strategy from which Pham Van Dong had been careful to stay aloof, China sent over 100,000 noncombat military personnel to support North Vietnamese infrastructure and logistics. Trong sự theo đuổi một chiến lược Trung Quốc mà Phạm Văn Đồng đã cẩn thận tách ra xa khỏi nó, Trung Quốc đã gửi hơn 100,000 nhân viên phi quân sự để trợ giúp hạ tầng cơ sở và sự tiếp vận của Bắc Việt. The United States opposed North Vietnam as the spearhead of a Soviet-Chinese design. Hoa Kỳ đã chống đối Bắc Việt như mũi giáo của một ý đồ của Nga-Hoa. China supported Hanoi to blunt a perceived American thrust to dominate Asia. Trung Quốc đã ủng hộ Hà Nội để làm cùn nhụt một sự công kích Mỹ được nhận thức nhằm thống trị Á Châu. Both were mistaken. Cả hai đều đã sai lầm. Hanoi fought only for its own national account. Hà Nội đã chiến đấu chỉ cho lý lẽ dân tộc của chính nó. And a unified Communist-led Vietnam, victorious in its second war in 1975, would turn out to be a far greater strategic threat to China than to the United States. Và một Việt Nam thống nhất do Cộng San lãnh đạo, chiến thắng trong cuộc chiến tranh thứ nhì của nó vào năm 1975, hóa ra sẽ là một mối đe dọa chiến lược lớn hơn nhiều đối với Trung Quốc chứ không phải đối với Hoa Kỳ. The Vietnamese eyed their northern neighbor with suspicion approaching paranoia. Phía Việt Nam nhìn lân bang phương bắc của họ với sự nghi ngờ dẫn đến hoảng loạn. During long periods of Chinese domination, Vietnam had absorbed the Chinese writing system and political and cultural forms (evidenced, most spectacularly, in the imperial palace and tombs at the former capital of Hue). Trong các thời kỳ kéo dài của sự đô hộ của Trung Hoa, Việt Nam đã hấp thụ hệ thống chữ viết và các hình thức văn hóa và chính trị của Trung Hoa (được làm bằng, một cách ngoạn mục nhất, với hoàng cung và các lăng tẩm tại cố đô Huế).
COMPANY
About us Careers Stitcher Blog Help
AFFILIATES
Partner Portal Advertisers Podswag Stitcher Originals
Privacy Policy Terms of Service Do Not Sell My Personal Information
© Stitcher 2022